caroline thanh huong

caroline thanh huong
catbui

Libellés

mardi 28 avril 2015

40 Năm Thăm Thẳm Đọan Trường của Boat People/ Audio book Ba Người Phi Công Tỵ Nạn, tác giả Lê Xuân Nhị.

Kính gửi quý anh chị bài viết 

40 năm thăm thẳm đoạn trường..., tác giả Phan Nhật Nam và bộ audiobook  của Lê Xuân Nhị  với truyện Ba Người Phi Công Tỵ Nạn của chú Huỳnh Chiếu Đẳng sưu tầm.

Chân thành cám ơn tác giả những bài được post trên trang Blog này.

Caroline Thanh Hương.
 


 photo hqdefault.jpg









 



(03/17/2015 10:19 AM) (Xem: 216)





Bức hình gây chấn động báo giới Hoa Kỳ với tựa đề “Lên tàu” do một thủy thủ chụp được trên chiến hạm USS White Plan Tháng 7 năm 1979. Đấy là hình ảnh một người đàn ông Việt Nam được vớt đang leo lên thang dây bên mạn tàu với tất cả hành trang của gia đình trong túi vải cắn chặt trong miệng. Cuối năm 1979 tin tức về tàu Mỹ vớt người tỵ nạn bay về Việt Nam, cả Sài Gòn lên cơn sốt. Nhà nhà vượt biển, người người vượt biển. Đó cũng là năm cuối cùng của thập niên 70 với người phụ nữ có bầu cũng ra đi, sanh trên tàu Mỹ, đặt tên con theo tên tàu có khai sanh công dân Hoa Kỳ do thuyền trưởng ký.

 
Trong thời gian hải quân Thái làm việc, bọn cướp vắng mặt nhưng ngay sau khi lính Thái vừa bỏ đi thì lập tức bốn chiếc tàu hải tặc tràn người lên đảo. Bọn cướp lại lục soát thêm nhiều lần nữa. Dĩ nhiên những nạn nhân VN khốn khổ chẳng còn gì để chúng cướp bóc nữa. Để bù trừ chúng luân phiên nhau hãm hiếp phụ nữ tại chỗ giữa ban ngày. Bọn hải tặc Thái chẳng cần tìm chỗ nào kín đáo để diễn trò thú vật... Năm bé gái: KH, 15 tuổi, BT 17 tuổi, AH 12 tuổi, NỴ 11 tuổi và MT 15 tuổi bị chúng cưỡng hiếp tập thể ngay trước mắt mọi người. Thảm kịch trên đảo Kra may thay được chấm dứt vào ngày 6 Tháng 1 năm 1980, khi nhóm người tuyệt vọng được phát hiện bởi trực thăng của Cao Ủy LHQ bay qua đảo. Vị cứu tinh là Ông Scheitzer, Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đã đến đảo Kra trên một chiếc tàu cảnh sát Thái, đưa thuyền đón người tỵ nạn vào quận Pakphanang thuộc tỉnh Nakorn Sri Thamaraj. Ở đây 18 ngày làm thủ tục với cảnh sát Thái, thì nhóm người tỵ nạn được đưa về trại Songkhla ngày 23 tháng 1, 1980.
Ngày 10 tháng 4 năm 1980, nhân ngày giỗ thứ 100, ngày người vợ và các con cùng những đồng bào chết thảm trên Biển Đông để đi tìm Tự Do. Tại trại tỵ nạn Songkhla, Cha Tuyên Úy Joe Devlin đã dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho gia đình ông và những người bị chết oan khốc tại nhà thờ trại. Người Việt Nam khổ nạn điển hình Vũ Văn Thái dâng lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy xót thương cho những linh hồn đã chết đớn đau trong thảm họa hung của cả Dân Tộc Việt Nam. Xin Chúa hãy cứu vớt linh hồn vợ con, các con của con để đưa tất cả về nơi an nghỉ bình an hạnh phúc đời đời nơi nước Chúa. Xin Chúa hãy giúp con đầy đủ can đảm để đứng vững sau cơn gió bão khủng khiếp của đời người, để cho con còn đầy đủ minh mẫn, đủ sức khỏe để lo lắng cho đứa con trai duy nhất của con còn đang sống ở Đài Loan. Con đã chịu đau thương quá nhiều. Con cầu nguyện Ơn Chúa ban xuống cho tất cả thân nhân còn lại của con, các đồng bào của con, những người sẽ vượt biển ra đi đều tới bến bờ bình an”.
Thảm kịch của gia đình ông Vũ Văn Thái hoàn toàn là không đơn lẻ, cùng thời điểm của thập niên 80, trên biển Đông, vùng Vịnh Thái Lan đã là một địa ngục có thật đối với khối Người Việt khổ nạn vì họa cộng sản phải phá thân ra khỏi nước... Những thảm cảnh như sau tiếp diễn hiện khắp nơi với những nhân chứng, nạn nhân thuộc nhiều quốc gia, nhiều giới người, nhiều lứa tuổi...
Ông Ted Schweitzer là người Mỹ đầu tiên đã cập bến vào một đảo sào huyệt hải tặc và mục kích chuyện 238 thuyền nhân Việt Nam bị đắm ghe, dạt vào đấy. Có 80 người bị giết, tất cả các phụ nữ đều bị hãm hiếp và buộc khiêu vũ khỏa thân cho chúng xem. Ông Schweitzer can thiệp yêu cầu họ chấm dứt tấn tuồng vô nhân đạo này thì bị bọn cướp xúm lại đánh đập đến như gần chết. Thật may mắn mà ông còn sống sót để thuật lại. Khi tỉnh lại, ông thấy trước mắt những cánh tay, đùi chân còn rải rác đây đó. Đấy cũng là bằng chứng có vụ ăn thịt người.
Cô Nguyễn Phan Thúy cùng với mẹ, dì và người em gái đã bỏ tiền ra mua chổ trên tàu để vượt trốn. Sau mười ngày lênh đênh trên biển cả, tàu bị mắc cạn, hết nước, hết thức ăn. Hải tặc đến bắn chết người dì. Một ông già có răng vàng bị chúng lấy kìm vặn khỏi miệng. Một người đàn bà đang có bầu bị chúng ném xuống biển. Các người sống sót bị chúng lột hết quần áo, xua cả lên bờ, và tàu bị nhận chìm. Chúng bắt các phụ nữ xếp hàng. Cô Thúy cùng một cô gái khác tên Liên bị chúng lựa ra rồi đưa sang chiếc thuyền đánh cá của chúng. Suốt ba tuần lễ sau đó, hai cô liên tiếp bị hãm hiếp. Cô Liên chịu không nổi, bị chúng chán rồi vứt cô xuống biển; còn cô Thúy chúng đem bán cho một động mãi dâm trong làng mang tên là “Phòng đấm bóp nơi thiên đường”. Ở đây cô mang thai và bị bọn người man rợ người ta lấy một que tre trục bào thai ra. Cuối cùng cô thóat được và được cơ quan Cứu Trợ Liên Hiệp Quốc tiếp nhận.
Năm 1989, một chiếc ghe chở 84 thuyền nhân bị hải tặc đến cướp. Tất cả đàn bà và trẻ con bị chuyển qua thuyền hải tặc và từ đó không còn nghe một tin gì về số phận họ nữa. Những người đàn ông thì bị nhốt dưới khoang tàu rồi, từng người một, chúng lôi lên đập cho đến chết. Sau cùng, những người còn lại liều mình sấn vào bọn cướp thì tàu hải tặc nhào đến đâm vào tàu thuyền nhận xuống cho chìm đi. Một số người cố thóat liền bị chúng dùng cây sào nhận chìm xuống nước. Còn lại 13 người thóat chết nhờ bơi ra xa và được bóng đêm che phủ.
Vào tháng 4 năm 1989, có bảy tên hải tặc trang bị súng ống, đao búa đến tấn công một chiếc tàu nhỏ chở 129 thuyền nhân. Tất cả đàn bà đều bị hãm hiếp, đàn ông bị sát hại, trừ một thiếu niên tên là Phạm Ngọc Nam Hưng. Anh này sống sót nhờ bám được vào một chiếc bè kết thành bởi ba xác chết.
Cuối cùng chính phủ Thái bị Cơ quan Cứu Trợ Quốc Tế cưỡng bách tìm biện pháp đối phó. Các tàu đánh cá phải ghi tên bằng chữ lớn ngay mũi tàu. Các tàu đều phải được chụp hình lúc ra khơi và lúc về cảng. Biện pháp này đã khiến nhiều hải tặc lo sợ, nhưng những bọn còn lại bèn trở nên tàn nhẫn, hung dữ hơn trước! Chúng thủ tiêu hết mọi nhân chứng để không còn một ai nhận diện được chúng nữa. Vào cuối thập niên tám mươi các vụ hải tặc dần dần chấm dứt do con số người tỵ nạn giảm đi.
 
3. Đoạn Kết của Bi Kịch Thuyền Nhân Người Việt
Cuối cùng, làn sóng người tị nạn Việt Nam bằng đường biển đã viết lên thiên bi sử của thuyền nhân, và những câu chuyện hãi hùng của các cuộc vượt biển của người tị nạn Việt Nam đã đánh động được lương tâm thế giới. Vào tháng Ba 1979, chương trình Ra Đi Có Trật Tự (ODP) ra đời để cố gắng ngăn chặn những làn sóng vượt biển. Ngoài ra, cũng vào thời gian này, các chương trình cứu người vượt biển đã được một số tổ chức thiện nguyện quốc tế phát động hai chiếc tàu cứu vớt thuyền nhân ngoài biển là Anamur do một tổ chức từ thiện Đức Quốc vận động vào năm 1979 L’Ile de Lumiere của tổ chức từ thiện Pháp Medecins du Monde điều hành vào năm 1980 đã cứu mạng được nhiều thuyền nhân Việt Nam lênh đênh ngoài biển cả trong khoảng thời gian từ 1979 cho đến 1990.
Đoạn kết thúc nhân đạo được khởi từ những sự kiện sau đây: Tin tức thời sự loan báo ba thuyền tỵ nạn với 443 người mới đến Hồng Kông bị cảnh sát Macao kéo ra biển khơi gặp trận bão Hope chết không còn người nào. Nhưng người Việt vẫn tiếp tục ra đi. Riêng tháng 5 và 6, năm 1979 đã có 110 ngàn người vượt biển. Bão tố, hải tặc và các tàu viễn dương không cứu vớt đã làm cho số người đến các trại vào tháng 7 chỉ còn 22 ngàn người. Không những các tàu buôn dân sự làm ngơ mà ngay cả tàu chiến của Mỹ trên Thái Bình Dương cũng không cứu thuyền nhân. Xót đau vì cùng máu đỏ, da vàng, người Việt ở Mỹ và khắp nơi kéo về Hoa Thịnh Ðốn thắp nến cầu nguyện trước Bạch Cung.
Nước mưa hòa trong nước mắt nhỏ giọt xuống những ngọn nến lung linh. Những linh mục và những thượng tọa đi lại đọc kinh suốt đêm. Từ cửa sổ trên lầu của Bạch Cung, Tổng Thống Jimmy Carter đã nhìn thấy tất cả thảm kịch biển Ðông. Lòng người từ nhân thúc dục - Lệnh từ Phủ Tổng Thống Hoa Kỳ được ban hành. Bộ An Sinh và Xã Hội sẽ nhận cấp khoản Tỵ Nạn Việt Nam vào Mỹ từ 7 ngàn nay tăng lên 14 ngàn một tháng. Bộ Quốc Phòng ra lệnh cho Ðệ Thất Hạm Đội dành riêng năm tuần dương hạm để cứu vớt thuyền tỵ nạn. Tất cả các chiến hạm đều phải cứu thuyền nhân hoặc tiếp tế rồi báo tin cho các con tàu trách nhiệm khác.
Bức hình gây chấn động báo giới Hoa Kỳ với tựa đề “Lên tàu” do một thủy thủ chụp được trên chiến hạm USS White Plan Tháng 7 năm 1979. Đấy là hình ảnh một người đàn ông Việt Nam được vớt đang leo lên thang dây bên mạn tàu với tất cả hành trang của gia đình trong túi vải cắn chặt trong miệng. Cuối năm 1979 tin tức về tàu Mỹ vớt người tỵ nạn bay về Việt Nam, cả Sài Gòn lên cơn sốt. Nhà nhà vượt biển, người người vượt biển. Ðó cũng là năm cuối cùng của thập niên 70 với người phụ nữ có bầu cũng ra đi, sanh trên tàu Mỹ, đặt tên con theo tên tàu có khai sanh công dân Hoa Kỳ do thuyền trưởng ký.
Tổng Thống Jimmy Carter, còn đi xa hơn một bước nữa. Nhân dịp hội họp với Thủ Tướng Do Thái Bergin, vị nguyên thủ Mỹ đã đưa ra vấn đề thuyền nhân Việt Nam. Thủ Tướng Bergin nồng nhiệt đáp ứng: “Nước Do Thái đã có những kinh nghiệm riêng về vụ việc này. Năm 1939, trước khi thế chiến đệ nhị bùng nổ, con tàu The St. Louis chở 900 dân Do Thái trốn khỏi Ðức Quốc đã bị xua đuổi trên khắp mọi hải cảng. Không một nước nào nhận. Ngày nay tuy chúng tôi là một nước nhỏ, mới lập quốc nhưng sẵn sàng chào đón thuyền nhân Việt Nam”. Tháng 10 năm 1979, một tàu Do Thái trên đường đi Nhật đã cứu được 60 thuyền nhân. Thuyền trưởng nói rằng các bạn phải cảm ơn Carter. Tính đến nay, dù là quốc gia sống giữa vùng Trung Ðông khói lửa sôi động, Do Thái cũng có cả ngàn thuyền nhân Việt Nam lập nghiệp.
Năm 1981, Tổng Thống Carter mãn nhiệm kỳ, đến năm 1988 có một thuyền trưởng chiến hạm USS Dubuque trên đường qua Trung Ðông đã gặp con tàu vượt biên ra đi từ Bến Tre với 110 người ngày 22 tháng 5-1988. Sau nhiều giông bão, gặp nhiều tàu đại dương nhưng không được cứu, đến ngày thứ 19 gặp tàu chiến Mỹ thì thuyền nhân hoàn toàn kiệt quệ. Hạm trưởng không hề biết lệnh của Tổng Thống Hoa Kỳ 8 năm về trước nên ông chỉ tiếp tế nước và thực phẩm nhưng không vớt. Con thuyền Bến Tre trôi dạt trên đại dương trước sau tổng cộng 37 ngày, chỉ còn sống 52 người sau khi đã ăn thịt những người khác.
Tàu đánh cá Phi cứu vớt con thuyền Bến Tre khốn khổ đưa về đảo Bolinao. Ông Hạm trưởng chiến hạm USS Dubuque phải ra tòa quân sự của hải quân vì không làm tròn bổn phận. Nạn nhân còn lại của thảm kịch Bolinao phải ra tòa làm nhân chứng. Tên hòn đảo hoang trên Thái bình Dương với 52 người còn sống. Sống bằng thân xác của gia quyến và đồng loại. Bolinao 52 chỉ là một trong hàng ngàn thảm kịch khác đã xảy ra mà chúng ta không bao giờ biết hết. Nếu như không có một người như Jimmy Carter vào những ngày cuối thập niên 70 niềm đau thương của biển Ðông còn chất ngất đến chừng nào.
 
Phần Hai: Sống là chiến đấu
I. Người Việt Trên Thế Giới
Tính đến năm 1999, đã có khoảng 3 triệu người tị nạn từ các nước Việt, Lào và Cam Bốt, trong đó có tới 1.75 triệu người Việt Nam bỏ nước thóat nạn cộng sản bằng đường bộ và đường biển. Nhóm tỵ nạn này đã được định cư hầu hết ở các nước Tây Phương và Úc Châu. Riêng chương trình United States East Asian Refugee Admissions Program (Chương Trình Tiếp Nhận Tị Nạn Đông Á Của Hoa Kỳ) đã định cư hơn 1.4 triệu người tị nạn của ba nước Đông Dương sau khi vùng này bỏ cộng sản chiếm đóng vào năm 1975. Trong số người định cư theo chương trình kể trên có khoảng 900,000 người từ Việt Nam. Thập niên cuối thế kỷ 20, Cao Ủy Tỵ Nạn LHQ chính thức tuyên bố đóng cửa Trại Tị Nạn Galang vào ngày 9 tháng 9 năm 1996. Tính chung, đảo này đã đón nhận hơn 120,000 thuyền nhân Việt và Cam Bốt kể từ những năm 1970s.
Nhóm cuối cùng 486 người Việt rớt thanh lọc đã rời Trại Galang trong tháng 9, 1996. Từ đó, nhà cầm quyền Nam Dương biến Đảo Galang thành một khu kỹ nghệ đặc biệt. Trang sử thuyền nhân khép lại, mở sang trang mới về lần hình thành các Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại, nơi lý tưởng Tự Do, Dân Chủ-Nhân Quyền được trân trọng gìn giữ, củng cố bởi những định chế cính trị đại nghị dân chủ của các nước sở tại mà Mỹ, Anh, Pháp, Gia Nã Đại, Đức, các nước Tây, Bắc Âu là những quốc gia tiêu biểu. Để từ đây hy vọng sẽ có một ngày ngọn lửa Tự Do, Dân Chủ-Nhân Quyền được chuyển về lại quê nhà. Bóng đen cộng sản sẽ cáo chung trên quê hương nước Việt.
Người Việt tỵ nạn/Người nhập cư gốc Việt hiện có mặt tại 103 quốc gia đều đã được các chính phủ sở tại cho phép cư ngụ, nhập cư dưới những hình thức khác nhau. Từ đấy Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại hẳn nhiên nhận lãnh một nhiệm vụ cao thượng dẫu không mấy cá nhân, tập thể cá nhân đặt nên những định chế, phát ngôn chính thức – Nhiệm vụ đối với quốc gia đang cư ngụ, nhập cư và với quê nhà mà chắc hẳn luôn là những nỗi niềm canh cánh âu lo. Mối lo lắng này rất cụ thể đối với thành phần thế hệ thứ nhất - Thành phần Người Việt gánh chịu đủ khối nặng chiến tranh và khổ nạn Việt Nam suốt hơn nửa thế kỷ qua, trước và sau 1975. Kể cả thế hệ 1+ ½ và thế hệ Thứ Hai mà ngày ra khỏi nước đang độ tuổi ấu thiếu những cũng đã phải chịu đủ dấu ấn khốc liệt của chế độ cộng sản đè nặng trên đường vượt biên tìm sống qua lần chết. Nhưng Sống có nghĩa Sống trong Hiện Tại hướng về Tương Lai. Chúng ta hãy nhìn lại đoạn đường mà ba, bốn thế hệ người Việt đã kinh qua một cách rất bình thường với tính chất cao quý của Con Người/Người Việt Nam trong suốt 40 năm 1975-2015.
Thống kê tổng quát về tình trạng di dân thế giới vào đầu thập niên của Thế Kỷ 21 trên báo chí tại Pháp nêu con số gần hơn 2.5 triệu người Việt Nam hiện đang sinh sống trên gần chín mươi quốc gia. Lượng người đông nhất là ở vùng Bắc Mỹ, kế tiếp ở Âu-Châu, sau cùng là ở Châu Đại-Dương và quanh vùng Đông Nam Á. Số người Việt hiện đang ở Trung-Đông và Châu-Phi cũng lên tới con số ngàn. Ngoài ra còn có một thành phần khác thuộc Cộng Đồng Người Việt ở nước ngoài là thành phần người Việt ở các nước Đông Âu và ở Nga. Đây là những đối tượng ra khỏi nước trước 1975 với tư cách công dân của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Hà Nội), và sau 1975 đi theo diện xuất khẩu lao động, du học sinh của nhà nước cộng sản Việt Nam. Thành phần này không là đối tượng của bài biên khảo vốn chỉ tập trung vào tập thể người Việt miền Nam tỵ nạn cộng sản/Công dân Việt Nam Cộng Hòa rời khỏi nước sau 30 tháng 4, 1975.
 
I-1. Người Việt tại Mỹ
Người Mỹ gốc Việt là người có quốc tịch Mỹ với nguồn gốc khai sinh dân tộc Việt Nam. Lượng người này chiếm hơn một nửa của tổng số người Việt hải ngoại, và là cộng đồng lớn thứ tư của nhóm người Mỹ gốc Á Châu sau các cộng đồng người Mỹ gốc Hoa, gốc Ấn, và người Mỹ gốc Phi Luật Tân. Theo Điều Tra Dân Số năm 2010 (Census 2010) thì tổng số người Việt gốc Mỹ được nêu chính xác là 1,548,449 nếu tính về mặt chủng tộc Việt thuần túy, hoặc 1,737,433 nếu bao gồm những chủng tộc người khác đã sinh sống trên lãnh thổ việt Nam trước khi đến Mỹ.
Người Việt di cư đến Hoa Kỳ với số lượng đông kể từ sau biến cố 30 Tháng 4, 1975 là đợt người tỵ nạn cộng sản từ miền Nam Việt Nam được chính phủ Hoa Kỳ di tản. Tiếp theo là những thuyền nhân trong thập niên 70, 80 như phần 1 đã trình bày được cộng đồng quốc tế cứu vớt. Tiếp theo trong thập niên 90 là khối người Việt nhập cư vào Hoa Kỳ qua Chương Trình Đoàn Tụ Gia Đình của kế hoạch Ra đi Có Trật Tự (ODP ) bao gồm Chương Trình HO và diện con lai. Bắt đầu từ hai bàn tay trắng, Nười Mỹ gốc Việt với một nghị lực và khả năng sinh động mạnh mẽ đã hòa nhập vào xã hội Hoa Kỳ để trở thành một cộng đồng dân tộc thiểu số đáng kể tại quốc gia này trong một thời hạn ngắn nhất.
Lịch sử của người Mỹ gốc Việt chỉ mới diễn ra gần đây trong khoảng hai ba chục năm trở lại. Tính tới năm 2012, số người Việt nhập cư vào Mỹ chiếm 3% của tổng số người nhập cư từ nhiều quốc gia. Số người Việt di cư vào Mỹ năm 1980 là khoảng 231,000 đã tăng tới hơn 1.5 triệu vào năm 2012, như thế tổng số người Mỹ gốc Việt đã trở thành số lượng dân nhập đứng hạng 6 ở Hoa Kỳ, và hạng 4 so với các sắc dân từ Á Châu khác như trên đã nêu.
Theo nghiên cứu năm 2008 của Học Viện Manhattan, người Mỹ gốc Việt là một trong những nhóm người nhập cư ở Mỹ có chỉ số hội nhập cao nhất so với các sắc dân thiểu số khác. Là một cộng đồng gồm phần lớn là những người tị nạn chính trị cộng sản nên hầu hết đồng có quan điểm chống cộng mãnh liệt, việc trở lại Việt Nam là một điều bất khả thi. Từ nền tảng chính trị này, quá trình tham gia vào các sinh hoạt chính trị tại Hoa Kỳ (chống chế độ độc tài trong nước ) đã được thực hiện với tỷ lệ rất cao. Trong một cuộc thăm dò ý kiến của báo Orange County Register năm 2000 thì có đến 71% người trả lời là công cuộc việc đấu tranh chống cộng sản là “ưu tiên hàng đầu” hay “rất quan trọng”; và 77% người được hỏi đồng có ý kiến coi trọng việc thúc đẩy nhà nước cộng sản Việt Nam phải cải thiện chính sách nhân quyền.
Từ nền tảng chính trị này, Cộng Đồng Người Mỹ gốc Việt thường xuyên tổ chức biểu tình chống nhà nước cộng sản Hà Nội, lên án tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam, đồng thời biểu hiện sự chống đối với những cá nhân hay đoàn thể có khuynh hướng thỏa hiệp với phe cầm quyền ở trong nước. Dẫu rằng hằng có những tỵ hiềm, chia rẻ giữa các nhóm người Việt nhưng cuối cùng tất cả đã đoàn kết quanh vấn đề lớn: Bảo vệ Chủ Quyền Việt Nam qua sự kiện nhà nước Trung Cộng chiếm đóng Hoàng -Trường Sa và gần nhất là vụ việc Bắc Kinh hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng lãnh hải Việt Nam (Tháng 5, 2014).
Điển hình của tinh thần chống cộng quyết liệt kể trên, vào năm 1999, một cuộc biểu tình lớn đã được tổ chức tại Thành Phố Westminster, Nam California nhằm phản đối Trần Trường khi người này treo cờ Đỏ Sao Vàng và bức hình Hồ Chí Minh trong cửa hàng của anh ta. Số người biểu tình lên đến hơn 30,000 người kéo dài đến 53 ngày là một biểu hiện dẫu còn nhiều điều tranh cải, nhưng hiển nhiên đã minh chứng: Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại không hề chấp nhận chế độ cộng sản Việt Nam dưới bất cứ hình thức, biểu hiện nào cho dù bao lâu sau ngày 30 tháng 4, 1975 cho dù bao xa đất nước.
Cần phải nhắc lại sự kiện đáng tự hào... Đầu năm 2012, hơn 150,000 người Mỹ gốc Việt đã tham gia một chiến dịch ký Thỉnh Nguyện Thư hiện thực cuộc vận động nhân quyền lớn nhất từ trước đến nay của cộng đồng người Việt hải ngoại. Sự kiện đã khiến chính phủ Hoa Kỳ đã phái Thứ Trưởng Ngoại Giao, đặc trách về Nhân Quyền là Michael Posner mở cuộc tiếp xúc với 165 người đại diện CĐNV ở khắp nơi trong ngày ngày 5 Tháng 3, 2012 đồng thời cam kết sẽ tiếp tục đưa vấn đề nhân quyền trong vòng đối thoại với nhà nước cộng sản Việt Nam. Cuộc vận động này cũng bao gồm các cộng đồng nạn nhân cộng sản khác như cộng đồng người H’mong ở Minnesota, người Tây Tạng lưu vong...
Song song với những sự kiện đặc thù kể trên, Cộng Đồng Người Việt ở Mỹ thuộc nhiều tiểu bang đã vận động, xây dựng thành công nên Chiến Dịch Cờ Vàng. Công cuộc đã có kết quả nên một số thành phố và tiểu bang đã ban hành nghị quyết xử dụng Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của Việt Nam Cộng Hòa làm biểu tượng đại diện cho Cộng Đồng Người Việt tại các địa phương. Đi đầu trong công cuộc vận động có ý nghĩa chính trị to lớn này là trong Tháng 8/2006, chính quyền hai Tiểu Bang California và Ohio đã thông qua Đạo Luận Công Nhận Cờ Vàng của VNCH. Dạo luật đã khiến nhà nước Hà Nội cố tìm cách phản đối nhưng tất cả không đưa đến một kết quả nào. Chiến Dịch Cờ Vàng hiện nay lan rộng qua nhiều thành phố và tiểu bang khác trên nước Mỹ. Hóa ra sau gần 40 đoạt chiếm miền Nam, lá cờ Đỏ Sao Vàng chỉ được treo tại các cơ quan nhà nước cộng sản mà thôi.
(Còn tiếp)



   



Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire