caroline thanh huong

caroline thanh huong
catbui

Libellés

lundi 20 mars 2017

Một Hướng Nhìn, Một Cảm Nghĩ.

Đọc bài trên net về cái khác giữa người trong và ngoài nước.
Đọc để biết tâm lý người trong và ngoài nước, giữa cái mình cho là Có và cái Không.
Có hay Không đều có ý nghĩa với một người vào thời gian nào đó.
Giàu ở nước giàu chưa chắc là đủ giàu.
Nghèo trong một nước giàu chưa chắc có ai tin.
Giàu trong một nước nghèo khác với Nghèo trong một nước nghèo thì quả thật khác xa với cái mà nhà giàu có thể biết được.
Kính mời quý anh chị đọc để có cái nhìn riêng của mình về sự đa dạng của cuộc sống và lối suy nghỉ của 2 không gian, thời gian khác nhau.
Caroline Thanh Hương


Thói Quen
Người ta thường nói thói quen là những cử chỉ hay hành động, đôi khi có thể là những câu nói cứ lập đi lập lại của con người, ngay cả con vật cũng có thói quen.
Thói quen nhiều khi còn bị ngộ nhận là bản chất. Vì người ta cho rằng do bản chất như vậy nên mới đưa đến thói quen như thế.
Chẳng hạn người đàn ông Tàu, Việt Nam, Ấn Độ (ngày xưa) thường nghĩ mình là gia trưởng trong nhà, nên thường có thói quen quát nạt vợ con. Hoặc những người có chút ít chức quyền thường hành hạ kẻ ăn người ở trong nhà, để thoả mãn tính tự cao tự đại của mình.
Những chuyện thất nhân tâm như vậy, bây giờ nhan nhản khắp mọi nơi ở xứ mình kể từ ngày quê nhà đổi chủ.
Những chuyện trái tai gai mắt chúng ta nói hoài cũng không bao giờ hết. Bởi vì muốn hết, phải có sự thay đổi, nhưng khi người ta không muốn thay đổi (do cố ý) thì chuyện không bao giờ chấm dứt là lẽ đương nhiên.
Ngày xưa khi còn ở trong nước, người ta ít bị bệnh nổ, tức là khoe khoang um sùm về mình, vì một lẽ rất dễ hiểu là những điều khoe khoang rất dễ bị lộ tẩy. Ở cùng một đất nước các chi tiết về gia phả, quê quán, nghề nghiệp, chức tước rất dễ dàng kiểm chứng.
Biến cố 30 tháng Tư năm 75 làm cho người Việt mình phải lưu vong khắp nơi trên toàn thế giới. Chuyện được sống ở hải ngoại hoàn toàn do sự may mắn tình cờ, mà theo đạo Phật, là do cái duyên của người đó, chẳng do sự tính toán của con người. Một anh chàng ở miền biển, nhà rất nghèo, chẳng được học hành gì cả. Nhưng một đêm nọ lang thang ngoài bãi biển, tình cờ gặp một nhóm người đang lui cui đào những thùng dầu chôn dưới cát. Thì ra đó là nhóm người tổ chức vượt biên, để tránh bị bại lộ, họ áp  đảo anh chàng này xuống tàu đi luôn. Chỉ có thế, nhưng về sau anh ta cứ kể lể, chuyện anh được ở đây là một sự trầy trật của gia đình. Bao nhiêu tiền bạc mất hết vì bị lừa đảo nhiều lần, cuối cùng anh mới qua được chỗ này. Anh nghe chuyện thiên hạ, để thêu dệt thành chuyện của mình. Tự tạo cho mình một quá khứ hào nhoáng. Để làm gì? chăng là để che giấu mặc cảm tự ti, vốn thua kém mọi người về phương diện học vấn. Thiệt là sĩ diện rởm, ngày xưa nghèo mạt rệp, hay giàu nứt đố đổ vách, thì ăn thua gì tới người khác. Bản thân mình có thành công không mới là chuyện đáng nói. Bản thân mình có giúp ích cho gia đình, bạn bè, cộng đồng, làng nước, mới là điều đáng kể.
Thật là quái đản khi nhiều người rất thích nổ ở những nơi công cộng.
Xa xứ ngộ cố tri. Gặp đồng hương, được nói tiếng mẹ đẻ là điều an ủi cho người già. Nhưng sau khi tay bắt mặt mừng, lại bắt đầu khoe về mình, thói quen này, hình như nhiều người hay mắc phải. Có nhiều người chỉ gặp nhau sau năm phút, là người nghe đã biết người nói có bao nhiêu căn nhà, có bao nhiêu đứa con toàn sư với sĩ. Nhưng khi kêu gọi giúp đỡ cho trẻ em nghèo, người hoạn nạn thì tự nhiên họ biến mất!
Khi Ban mê Thuột thất thủ vào đầu tháng Ba (10/3/75), những người có chức có quyền biết rằng tình hình chiến sự bất lợi. Một số tướng lãnh  hay nhân viên của Mỹ đã bắt đầu lặng lẽ rời VN. Rồi tới ngày 24 tháng Tư thì cả Tổng Thống lẫn phó TT cũng leo lên máy bay đi luôn, sau những tuyên bố hùng hồn : cùng toàn dân tử thủ đến cùng.
Sau đó khi đài phát thanh của Mỹ phát ra bài hát white Christmas, thì nhân viên của họ biết đó là tín hiệu báo động, tất cả phải di tản ngay lập tức. Dĩ nhiên ai có điều kiện thì họ đã đến những địa điểm  để ra đi an toàn.
Chỉ đến khi xe tăng bắt đầu lừng lững đi vào thành phố, thì sự hỗn loạn bắt đầu xảy ra. Tại sân bay, trên nóc nhà toà đại sứ Mỹ ở Sàigon, nơi bến tàu Khánh Hội, người ta tranh giành để vượt thoát trong giờ phút cuối cùng.
Biết bao hình ảnh tang thương để giành được một chỗ trong những phương tiện thập phần nguy hiểm đó.
Vì có lợi thế bờ biển bao quanh và sông rạch khắp nơi ở miền Nam. Sau khi hoàn hồn, người ta không ngừng hi vọng, bắt đầu âm thầm vượt thoát bằng tàu ghe từ miền Trung, miền Nam, ngay cả đường bộ.
Sau vài năm thấy nước ngoài nhân đạo, dễ dãi trong việc nhận di dân. Miền Bắc cũng bắt đầu vượt biên bằng đường biển, vì Hồng Kông quá gần với bờ biển phía Bắc. Có người còn thoát được bằng thuyền nhỏ chỉ chứa được vài người, đó là những cái thuyền giống như những cái rá vo gạo, gọi là thuyền thúng.
Thoát chết trong gang tấc, thế mà khi đã yên nơi yên chỗ, người ta lại mắc bệnh nổ. Trong 10 năm đầu ( 75-85) gặp nhau ở những nơi có nhiều người Việt, Mít ướt rất dễ nhận ra vì nghề nghiệp, nơi ăn chốn ở, diện mạo bên ngoài. Họ là những người chân ướt chân ráo mới qua. Tiếng Anh thì lúng túng, quần áo thì lùng bùng, nhà ở thì lung tung.
Trái lại Mít khô cũng là người Việt mình, nhưng họ là những người được du học từ lâu, hoặc ít ra cũng được ra đi rất sớm. Dĩ nhiên tiếng Anh của họ thì rõ ràng, quần áo thì xênh xang, cơ ngơi vững vàng.
Mít ướt Mít khô quả là khác nhau một trời một vực.
20 năm sau, không còn ai phân biệt “ ướt hay khô” nữa. Vì quá ê chề khi còn bị kẹt ở quê nhà, họ đã phải trả bằng một giá rất đắt mới có mặt ở đây. Những chuyến vượt biên đầy nguy hiểm, những ngày tù tội trong ngục tù CS. Nên khi tới được bến bờ tự do, mọi người đều cố gắng vươn lên. Chẳng mấy chốc con cái họ cũng ăn học thành tài. Rồi họ cũng có nhà cửa dù không to, nhưng cũng là nơi trú ẩn an toàn cho những ngày còn lại khi tuổi già bóng xế.
Sau năm 75, không còn phân chia ranh giới bằng tuyến 17 là con sông Bến Hải. Người miền Bắc lan tràn khắp nơi, họ vào lập nghiệp ở miền Trung và khắp miền Nam. Rồi họ lan tràn khắp hải ngoại.
Chỉ có một điều không làm sao giải thích, người miền Bắc di cư vào Nam năm 54 và người miền Bắc ở lại gọi là Bắc 75, giọng nói hoàn toàn khác biệt. Dù bây giờ họ có lấy chồng Mỹ, trở thành siêu mẫu, siêu sao theo cách gọi của họ, thì không cách gì họ thay đổi được giọng nói của họ. Thế là lại có từ Bắc Kỳ 9 nút(54) và Bắc Kỳ 2 nút( 75) xuất hiện, và nguyên tắc để nhận ra là giọng nói. Bởi vì bây giờ về VN các cô người mẫu,chân dài, chân ngắn, đại gia, đại cán( bộ) xài tiền như nước. Dẫu họ có ở biệt thự đồ sộ như lâu đài, nhưng khi nói cũng không thể giấu được nguồn gốc của họ.
Bệnh phân biệt và bệnh nổ, hình như là thói quen của người mình. Chuyện tại sao mình được sống ở hải ngoại hoàn toàn không dựa vào những tiêu chuẩn về gia thế, gia phả, tài năng… gặp nhau nơi xứ lạ quê người. Nơi chôn nhau cắt rốn, nơi mình lớn lên rồi làm việc, hiếm khi gặp lại nhau, những người cùng cảnh ngộ, để biết rõ về mình, để kiểm chứng những điều mình nói ra.
Thế là bệnh nổ phát ra. Người ta dễ tạo ra những huyền thoại về mình trong quá khứ. Dĩ nhiên là tưởng tượng hơi nhiều.
Có một nhà văn xứ cao bồi thường viết rất hài hước về những trái khoáy của những người đẻ gần kho đạn”. Hễ ai nói gì cũng chen mang cái tôi của mình vào. Bất cứ chuyện gì mình cũng phải đặc biệt hơn( khác) người. Ngay cả chuyện ăn trưa bằng tô mì gói. Ông pháo binh này luôn luôn có thói quen nêu sự khác biệt của mình với người khác, bằng câu mở đầu “ tôi ấy à…”.
Tôi mà ăn mì gói thì phải đập thêm 2 quả trứng vào. Ý nói sang trọng hơn người chỉ ăn mì không. Khốn nỗi trong chỗ làm chung, nhiều người ngứa tai quá. Họ đã cười nhắc khéo: bố già ơi, đây là xứ Mỹ, một quả trứng chỉ có 10 xu. Người ta không ăn vì người ta không thích, chứ không phải người ta không thể mua. Bố nói câu ấy với dân Hà Tĩnh, hay dân nghèo được cứu trợ bằng thùng mì, để họ ao ước được ăn sang như bố. Nói không đúng chỗ rồi bố ơi.
Đôi khi nghe ông tôi ấy à, khoe đi làm có kẻ hầu người hạ. Nhà ở thì to rộng thênh thang, dù chẳng biết ngày xưa ông ấy ở đâu, làm chức gì. Chỉ biết hiện nay ông không bao giờ bị kê khai lý lịch, trích dọc hay trích ngang, như hồi còn trong nước, nên người làm chung chỉ biết bây giờ ông chỉ là người quét dọn trong sở làm. Cùng là đồng hương, bán anh em xa mua láng giềng gần. Chẳng ai để ý tới chuyện ngày xưa, mình có là ông to bà lớn, hay chỉ là dân khố rách áo ôm. Tất cả đã vùi sâu trong lớp bụi thời gian. Ngoại trừ tính hay nổ, ông tôi ấy à cũng nặng nợ gia đình. Gia cảnh của ông cũng làm se sắt lòng người. Bà vợ bị stroke không thể đi làm, ở nhà nuôi hai đứa cháu ngoại mồ côi. Người ta cũng không chấp nhất gì một ông già khi gánh nặng gia đình vẫn đè nặng trên vai. Đám trẻ vẫn ngồi yên nghe ông kể chuyện, lắng nghe ông tâm tình. Đó là món quà lịch sự nhất của đám VN cùng làm ở hãng. Biết lắng nghe là nguyên tắc đầu tiên trong nghệ thuật đắc nhân tâm. Chỉ có một thằng chuyên nghề kê tủ đứng, mỗi lần nghe ông kể xong, nó cứ hỏi lại: “ bố có nói thách quá không đấy”. Ông không giận, vì chữ nói không đau, nhưng cử chỉ và thái độ người nói mới đau. Thằng kê tủ đứng, chỉ nói bâng quơ không ác ý, còn ông già cũng chỉ nói vói theo: tao còn đẻ ra được mày.
Thói quen riêng như thói quen của mỗi người gọi là thói quen cá nhân, và của một cộng đồng gọi là thói quen xã hội.
Về thói quen cá nhân như ăn mặn, ăn cay, thức khuya, dậy sớm của mỗi con người ít ai nói đến. Nhưng khi người ta vượt ra khỏi biên cương ranh giới quê nhà. Họ mang theo cả những thói quen mà khi còn ở quê huơng ít ai để ý. Bởi vì chung quanh mình, ai cũng như vậy, đâu thấy gì khác biệt .
Không ít gia đình đã đổ vỡ, vì cha mẹ ông bà được bảo lãnh qua sống chung với con cháu, vẫn mang theo những thói quen khó bỏ.
Người ta bảo rằng non sông dễ đổi, bản chất khó dời.
Từ bao đời nay, người Việt dùng đũa để ăn cơm và gắp thức ăn. Muỗng to để chan canh. Suốt mấy ngàn năm chẳng ai thắc mắc gì cả. Chẳng ai mắc bệnh vì ngồi ăn cơm chung. Bao nhiêu thế hệ sinh ra và lớn lên, mọi việc vẫn êm đềm trôi qua. Nay qua sống ở xứ gọi là Hợp chủng Quốc, bắt đầu có nhiều chủng tộc khác len lỏi vào giòng họ. Thằng con rể mắt xanh tóc vàng nói, mọi người húp nước miếng của người khác,vì dùng đũa gắp thức ăn. Đứa con dâu Ấn Độ nấu món gì cũng cho cà ri cay xé họng. Thằng cháu đích tôn thì cứ nhăn nhó sao ông bà weird quá, mặc pyjamas mà ngồi ở phòng khách xem báo. Ăn cơm xong miệng vẫn ngậm tăm xỉa răng. Bà nổi điên lên, bảo tao có ở truồng đâu mà weird. Thằng con trai thì mặt mày nhăn nhó, như đứng giữa ngã ba đường: bên tình bên hiếu, biết chọn bên nào. Mắng con cũng không được,vì nó nói đúng mà.
Ôi văn hóa Âu Tây đã làm cho người ta phải gọi dân tộc mình có nhiều thứ xấu xí, man rợ quá. Dù đó chỉ là ẩm thực : ăn thịt chó mà còn làm thơ ca tụng:
Sống ở trên đời ăn miếng dồi chó.
Chết xuống âm phủ biết có hay không?
Không những ăn dồi, mà còn ăn tiết canh chó. Rồi cách giết chó lại càng nhẫn tâm hơn. Trấn nước, đập đầu, dù đó là con chó thân yêu ngày đêm canh gác cửa nhà cho chủ. Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng lộn gan lên đầu.
Thật sự ra, thói quen ăn uống mà người ta hay nói là khẩu vị, cũng chỉ là một loại phản xạ có điều kiện của cái lưỡi. Nếu từ khi sinh ra một đứa trẻ được nuôi dưỡng bằng những loại thức ăn toàn rau củ thực vật, thì khi lớn lên không thèm khát thức ăn có nguồn gốc động vật. Chưa kể hệ thống tiêu hóa thích ứng với những thức ăn dễ tiêu, rất khó tiêu thụ những thứ thức ăn khác.
Hãy nhìn những dân tộc chuyên ăn chay như người Tây Tạng ( đa số), hay các nhà sư  đủ mọi chủng tộc. Họ có thấy ngon miệng ( appetite) khi ăn không? Những người chuyên ăn thịt cá rụt rè hỏi. Có chứ, tất cả những đứa trẻ từ khi sinh ra, cho tới khi lớn lên trở thành những nhà sư uyên bác, không có một sự khác biệt gì, bởi các thức ăn thực vật mà họ đã ăn để nuôi thân. Và nghiên cứu khoa học bây giờ đã chứng minh các thức ăn có nhiều xơ ( thực vật) lại là những thức ăn tốt nhất cho hệ tiêu hóa.
Ngày xưa có chuyện một ông vua ăn đủ thứ sơn hào hải vị, vẫn kêu ca không thấy ngon. Có một ông trạng ( Quỳnh) xin cống hiến một món ăn sẽ giúp cho vua thấy ngon miệng. Vua mừng lắm, bằng lòng cho ông trạng thử tài. Ông trạng bắc nồi lên nấu, vua ngồi chờ. Thỉnh thoảng để vừa bớt sốt ruột, ông trạng giả bộ nếm, rồi nói chưa xong.
Vua cứ ngồi chờ, chờ mãi cho tới khi bụng đã đói cồn cào. Lúc đó ông trạng mới nói món ăn đã chín. Vua được cho ăn, nhưng chỉ một chén nhỏ. Vua ăn mà cứ nức nở khen ngon, xin thêm nhưng ông trạng từ chối.
Vua khen rối rít, muốn ban thưởng lụa là châu báu cho ông trạng, để ông chỉ cho đầu bếp của vua cách nấu món ăn tuyệt vời này.
Ông trạng không nhận quà thưởng, chỉ thưa rằng, đây là món ăn của người nghèo. Đó chỉ là cháo trắng ăn với muối. Nhưng khi đói thì ai ăn cũng thấy ngon. Sở dĩ ngài không cảm thấy ngon miệng,vì được ăn quá nhiều thức ăn khó tiêu, gây khó chịu cho bao tử và ảnh hưởng tới cảm giác của lưỡi. Chứ thật ra Phật đã bảo rằng, thức ăn sau khi trôi qua cổ họng, xuống bao tử để co bóp xay nhuyễn thành chất nuôi cơ thể. Khi qua ruột già thành chất cặn bã thì cái nhà xí kia tiếp nhận, nó cũng chẳng hề biết đây là chất thải của một ông vua, hay là chất thải của một người nghèo khốn chạy ăn từng bữa.
Nhà vua đã ngộ ra một chân lý của cuộc đời, bộ máy tiêu hóa và căn nhà xí kia đối xử công bằng với mọi thứ mà nó phải phục vụ. Mà thật ra cái lưỡi cũng không có lỗi, cái có lỗi chính là cái đầu của con người.
Phật bảo rằng ai sinh ra cũng có lòng từ bi bác ái, cũng như Khổng Tử cũng từng nói: nhân chi sơ tính bổn thiện.
Phật còn nói chung quanh chúng ta, ai cũng có 6 con quỉ( lục tặc) lúc nào cũng lôi kéo con người làm điều xằng bậy tội lỗi.
Khi ăn mặn đã là một cách đối xử không công bằng với thú vật. Vì con người là sinh vật thượng đẳng cao cấp nhất trong các loài vật có sự sống. Con người có bộ óc có thể làm những chuyện, mà những con thú không làm được. Con người có thể giết thú vật để làm thức ăn. Không ngừng lại như thế, người ta còn muốn lùng sục săn những loài thú quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng.
Không những muốn ăn những thứ quý hiếm, con quỉ ác còn xúi người ta tăng cảm giác ngon miệng bằng cách hành hạ các con vật trước khi chết, xem chúng phản ứng như thế nào. Cũng như Hitler ngày xưa đã thử nghiệm xem người ta có thể chịu đựng tới bao nhiêu mới chết. Kẻ độc tài đã dùng đủ thứ cách tàn ác: nhận chìm một người còn sống trong bồn chứa đầy đá lạnh, hay  ngăn không cho ngủ…
Tính dã man theo kiểu Hitler, người ta vẫn đem ra làm trò tiêu khiển ở VN. Nơi mà sự tàn ác vẫn nhan nhản khắp nơi. Ở các quán nhậu người ta dùng một con vịt để ăn tiết canh nhiều lần. Đầu tiên hứng máu chảy ra từ một bên đầu cánh. Sau đó mới tới phiên cánh bên kia, cuối cùng mới cắt cổ. Hoặc họ lấy mật gấu trực tiếp từ một con gấu còn sống để pha chung với rượu. Mặc cho con vật oằn lại đau đớn. Chẳng có chủ quán nhậu nào bị phạt vì tội hành hạ súc vật. Suy cho cùng chủ nhân của họ, những người lãnh đạo cũng tàn ác không kém với những người dân nghèo khốn khổ. Biển nhiễm độc, cá chết trắng bờ, lụt lội khắp nơi, người dân nghèo quê tôi biết trông cậy vào đâu?
Ngày xưa khi còn bé, tôi không thể nào chịu được tiếng kêu thảm thiết của một con dê, bị treo lên cái cột của cái mái hiên một nhà trong xóm. Người ta đánh con dê từ sáng sớm cho đến chiều tối. Họ bảo rằng đánh như vậy để con dê toát hết mồ hôi, khi ăn sẽ không còn mùi hôi của nước tiểu. Họ làm như trong cơ thể con dê có sẵn một túi mồ hôi. Trong khi nước tiểu chỉ được chứa trong bàng quang, khi xả ra thì hết. Tội nghiệp cho con dê, vì mùi đặc trưng của giống, mà nó bị hành hạ dã man bởi những con người ngu ngốc, để tăng thêm cảm giác cho cái lưỡi của họ. Có thực sự họ khoái khẩu do hành hạ con dê, hay do chính cái đầu họ nghĩ vậy!
Đông là Đông Tây là Tây.
Đúng là nhân đạo hay tàn nhẫn là do cách nhìn của con người. Bên này dãy núi Pyrenees là chân lý, bên kia là tội ác.
Bên Mỹ chỉ có giết một con sóc hoang, mà hàng xóm thấy được cũng bị vô tù.
Ngay cả cách nuôi dưỡng thú nuôi để lấy thịt, hay thú nuôi trong nhà, cũng phải có tính nhân đạo. Một nông trại nuôi gà đã bị phạt vì nuôi gà quá chật chội thiếu vệ sinh. Họ nhân đạo theo cách nghĩ của họ, ngay cả giết gà tại nhà cũng không được phép, vì cầm dao cắt cổ gà vịt rồi đem nhúng nước sôi vặt lông, thấy man rợ quá. Thôi thì khuất mắt trông coi. Những con gà, những con bò bị giết hàng loạt bằng máy móc nhanh nhấp nháy, chứ không bị hành hạ trước khi chết. Người ta cảm thấy không ghê rợn, vì cuối dây chuyền sản xuất, chỉ thấy cho ra những mảng thịt bò, những miếng thịt gà gọn ghẽ.
Những thói quen mà khi ở quê nhà, người ta coi như chuyện bình thường. Xả rác bừa bãi, phóng uế tuỳ tiện, không coi trọng của công, bứt hoa dẫm chân trên cỏ ở công viên, vẽ bậy trên tường, khạc nhổ vung vãi…
Những bãi rác khổng lồ, bên trên là tấm bảng “cấm đổ rác”.
Từ tác phẩm Người Tàu xấu xí, ta thấy người Việt mình cũng chẳng hay ho gì.
Quả thật thói quen xã hội phản ánh trình độ nhận thức của những con người sống trong xã hội đó.
Mặt đẹp, ăn mặc hàng hiệu, nhưng khi chạy xe bị cọ quẹt, thì miệng  tuôn ra những tiếng thật tục tĩu, nhuần nhuyễn như một tay giang hồ tứ chiếng. Người mẫu hay nữ sinh cũng cá mè một lứa. Những bài thơ ca ngợi thiếu nữ như “ đứng ngẩn trông vời áo tiểu thư”,  nghe chừng như xa lạ.
Em tan trường về, anh theo Ngọ về. Bây giờ không còn nữa, nữ sinh bây giờ phóng xe ào ào. Chẳng còn e ngại “em không dám đi mau, sợ chàng chê hấp tấp. Số gian nan không giàu”. Hình như e lệ không còn là đặc tính của nữ sinh, khi trong quán nhậu người ta thấy các bà các cô cũng hò hét dô dô. Khi say thì tóc tai rũ rượi, quần áo loã lồ. Một gã đàn ông say xỉn đã coi không được, này lại là một mụ đàn bà, thì xã hội chẳng coi luân thường đạo lý là thước đo tư cách con người nữa.
Quê tôi bây giờ, người ta không còn thói quen giữ những truyền thống như xưa. Như Nguyễn Bính đã từng than thở “ hôm qua em đi tỉnh về, hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”.
Tất cả đều đổi mới đến chóng mặt. Chẳng còn các em gái vườn quê dầm mưa dãi nắng”.  Con gái dưới quê chẳng có ruộng vườn để cày cấy, họ phải đi kiếm ăn ở thành phố: bán bia ôm, làm tiếp viên trong các quán nhậu, hay lấy các ông chồng thiểu năng, tật nguyền xứ Hàn, xứ Đài.
Người ta bắt chước phương Tây đủ thứ theo kiểu trưởng giả học làm sang.
Ngày xưa nhà văn Vũ Trọng Phụng tả Xuân tóc đỏ là một thứ “ chó nhảy bàn độc”. Nhờ thời được bà me Tây mê mẩn, theo kiểu già nhân ngãi, non vợ chồng, bây giờ đầy rẫy Xuân tóc đỏ trong xã hội VN bây giờ. Chẳng biết chúng ta nên cười hay khóc.
Nhà thơ Tú Xương đã phải thốt lên “ xu hào rủng rỉnh mán ngồi xe”.
Gia đình là căn bản của xã hội. Khổng Tử đã nói rằng tề gia trị quốc bình thiên hạ. Nhưng bây giờ bức tranh gia đình quây quần vào buổi tối, mà nhạc sĩ Phạm Duy đã nói trong bản nhạc: cha tôi ngồi đọc báo, mẹ tôi ngồi đan áo, không còn nữa.
Buổi tối bố trong quán nhậu, mẹ đi nhảy đầm, con thì đàn đúm cờ bạc rượu chè hút sách. Đó là hình ảnh của xã hội VN bây giờ, bức tranh với nhiều mảng đen trắng. Một đất nước đứng đầu thế giới về lượng bia tiêu thụ, về tỷ lệ ung thư, về môi trường độc hại. Mặc kệ ai kêu gọi, mặc kệ những phi lý bất công, người ta vẫn quay cuồng hưởng thụ.
Về mặt nề nếp, quả thật xã hội Âu Tây có những điều rất đáng ca ngợi. Trẻ con đã thấm nhuần cung cách xếp hàng chờ đợi, không chen lấn la ó trước đám đông. Mọi người tuân theo mọi qui định do pháp luật đề ra. Cảnh sát là người giám sát người dân, nhưng cũng là người giúp đỡ người bị nạn. Chứ không phải cảnh sát là người chuyên rình rập để bắt bớ người, vu oan giá họa cho họ để ăn tiền tham nhũng.
Khái niệm của lòng từ bi nhân đạo cũng khác nhau tùy theo hoàn cảnh xã hội. Bên này dãy núi Pyrenees là chân lý, nhưng bên kia là tội ác.
Qua Ấn Độ, về VN bạn sẽ thấy nhan nhản trẻ con làm những việc lao động rất cực nhọc. Bê hàng chồng gạch nặng chĩu trên đôi tay gầy guộc bé nhỏ, lau chùi dọn dẹp ở những quán nhậu đến tận nửa đêm với bộ mặt phờ phạc, hoặc cắm cúi ngồi đánh giầy cho khách bộ hành. Những hình ảnh làm tê tái lòng người phương xa, nhưng lại bình thường trong trái tim những kẻ cầm quyền. Chẳng phải là bóc lột trẻ thơ, mà là giúp đỡ cho gia đình các em đó có được miếng cơm manh áo.
Nhân quyền và quyền lợi của trẻ em, người già là những khái niệm mơ hồ ở các nước nghèo đói.
Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. Ngày xưa còn ở quê nhà, con cháu thường sống chung với cha mẹ ông bà trong cùng một mái nhà. Chẳng ai kêu ca thắc mắc, hết thế hệ này tới thế hệ khác, coi như chuyện bình thường.
Các cụ thường bảo rằng ăn thì nhiều, chứ ở chẳng bao nhiêu. Khéo ăn thì no khéo co thì ấm.
Điều này thật là trái ngược khi sống ở xứ người. Khi mua nhà, ngân hàng đã ước lượng tiền nhà chiếm1/3 tiền lương thu nhập. Chẳng ai làm chủ hoàn toàn đúng nghĩa là nhà của mình, vì dẫu trả hết tiền mượn ngân hàng, bạn vẫn phải trả tiền thuế hàng tháng cho chính phủ. Đây là số tiền không nhỏ.
Như vậy đúng lý ra ở hải ngoại người ta phải sống theo kiểu ngũ đại đồng đường, cho bớt phần chi phí về tiền nhà mới hợp lý.
Trái lại phong tục tập quán ở Âu Tây không dựa vào sự hợp lý đó. Giới trẻ sau 18 tuổi, luật pháp cho phép chúng được toàn quyền không còn bị lệ thuộc vào cha mẹ. Khi còn đi học ở trung học, cha mẹ chỉ được biết kết quả học tập của con cho đến khi 18 tuổi. Khi bắt đầu học đại học, nhà trường không còn cho cha mẹ biết con mình học hành như thế nào. Họ chỉ báo cho biết đứa con học bao nhiêu credit, có đủ để được bảo hiểm sức khỏe theo cha mẹ không. Mỗi lục cá nguyệt đậu rớt bao nhiêu credit, chứ hạng mấy thì không nói. Cha mẹ chỉ có một bổn phận duy nhất là đóng tiền học. Có rất nhiều cha mẹ ít học, chẳng biết con mình học hành như thế nào, chỉ biết ở trong nội trú. Sau vài năm trường đuổi về nhà vì rớt các môn học. Nhưng con cái sau khi học xong, có công ăn việc làm chúng cũng dọn ra ở riêng, bất kể chỉ là đứa con duy nhất, con gái cũng như con trai.
Khi còn độc thân chúng còn xử sự như thế, thì tới khi lập gia đình, chuyện cha mẹ dọn vào ở chung là điều không thể xảy ra.
Cha mẹ (người bản xứ) đôi khi cũng không muốn ở chung với con cháu. Tự do cá nhân là tiêu chuẩn đầu tiên trong mọi mối liên hệ, đó là kim chỉ nam cho mọi hành động. Ngay khi còn đi học trung học, cha mẹ cũng không được (phép) vào phòng riêng của con. Bạn có cảm thấy bị xúc phạm tới quyền làm cha mẹ cũng không được. Vì điều này luật pháp cũng hỗ trợ cho đứa trẻ.
Người già ở VN khi sống ở hải ngoại thường mang tâm trạng cô đơn. Một nhà văn đã gọi đây là xứ lạnh lùng.
Con cháu không muốn ở chung với ông bà cha mẹ, vì không chịu được những thói quen của người già. Bởi vì chúng muốn có quyền tự do  làm bất kỳ cái gì theo ý chúng, muốn đi ngang về tắt không bị ai quấy rầy.
Cha mẹ chỉ biết thở dài, nước mắt chảy xuôi hay nợ đồng lần. Đừng mang tiêu chuẩn bằng cấp ra so sánh, dẫu con là người có bằng cấp hay chức phận thì các bậc sinh thành cũng vẫn phải sống theo cách cư xử của phương Tây.
Quả thật cái tự do ở xứ này đôi khi cũng có phần quá đáng, trong cách suy nghĩ của các đấng sinh thành.
Bỗng dưng những người già nghĩ đến những ngày còn ở quê nhà. Ăn bằng đũa, mặc những bộ đồ thoáng mát dạo chơi trong xóm. Ghé nhà này nhà kia không cần báo trước. Nhai trầu bỏm bẻm cũng chẳng ai thấy ghê rợn, chưng mắm kho quẹt cũng không ai kêu hôi kêu thúi. Ôi sao mà sung sướng.
Qua xứ người muốn nuôi con gà trống để nghe nó gáy mỗi sáng cũng không được. Hàng xóm than phiền ồn ào, nuôi con chó sủa nhiều cũng có cảnh sát tới khuyến cáo hàng xóm kêu ca.Tự do của người này bị giới hạn bởi tự do của người khác.
Vậy mà người ta gọi là xứ tự do. Ngày xưa khi còn ở quê nhà, muốn đi câu thì cứ kiếm chỗ nào có nước, thả cần câu xuống. Đâu có ai tới hỏi license đi câu.
Ở VN người ta muốn làm gì thì làm! Hát karaoke ầm ĩ bất kể đêm ngày, nhà cửa muốn xây cất tùy ý chả cần phép tắc gì cả.
Hoá ra bên VN, người ta được tự do làm trong trói buộc. Vì là chính thể độc tài đảng trị.
Còn bên Mỹ, người ta bị trói buộc trong tự do. Vì là nước dân chủ tự do.
Dù không được làm mọi chuyện tuỳ tiện như khi còn ở quê nhà, người ta vẫn muốn di cư qua Mỹ. Cột đèn nếu có chân thì cũng muốn qua Mỹ. Chúng bảo rằng qua Mỹ, chân cột đèn không bị người ta tè bậy, khiến chúng lúc nào cũng toả ra mùi khó ngửi.
Người ta vẫn muốn qua Mỹ để ngày ngày nhớ tiếng gà gáy, nhưng không còn thấy cảnh người bóc lột người. Đi chợ mua rau hay trái cây không thắc mắc nghi ngờ, rau sạch hay rau bẩn. Đã có cơ quan kiểm soát thực phẩm rất gắt gao. Mạng sống của người dân xứ họ, không thể coi thường như mớ tôm, mớ tép. Khi có người bị nạn, việc đầu tiên là được mang tới nhà thương để cứu sống sinh mạng. Các cơ quan hữu trách có thể dùng bất kỳ phương tiện nào hữu hiệu nhất, trực thăng hay xe cứu thương. Không có bất kỳ thủ tục gì để hạch hỏi có tiền hay không? Người hợp pháp hay người di dân lậu. Họ chỉ biết đây là một sinh mạng con người, phải dùng mọi cách để cứu chữa.
Dù có rất nhiều trói buộc trong đời sống, để duy trì mọi trật tự của xã hội. Nhưng khi sống trong xã hội phương Tây nhân phẩm con người được tôn trọng. Khi có việc tới công sở không ai  phải khúm núm thưa trình. Không ai bị quát tháo dọa nạt.
Thôi đành dẹp những thói quen xưa, để bắt đầu những thói quen mới. Bỏ trầu, bỏ mắm kho quẹt. Không hút thuốc trong nhà tuỳ tiện như xưa.
Điều quan trọng là bỏ những suy nghĩ tiêu cực. Con cháu mình là những đứa con có ăn có học. Không phải chúng bất hiếu, mà bởi vì cuộc sống ở mỗi nơi mỗi khác. Nhập gia tùy tục.
Không kêu ca than phiền, vì có biết bao người muốn “ bị trói buộc” như mình. Ban đêm ngủ không bị ai gõ cửa còng tay, vì bị gán vào những tội mà mình không làm. Thấy cảnh sát không sợ nếu mình không vi phạm luật.
Khi già nếu nghèo hay không có nơi nương tựa, cũng chẳng vất vả kiếm ăn nơi bãi rác bán mặt cho trời, bán thân cho đất.
Được cái này thì mất cái khác. Mỗi khi có thiên tai bão lụt thì chính quyền đã ra tay cứu trợ cấp kỳ. Điện cúp, nước cúp sẽ trở lại nhanh chóng. Không phải lo mỗi khi trời mưa, đường biến thành sông như ở quê nhà.
Con nít không lo thất học. Người nghèo không cần phải ngóng chờ từng bao gạo, thùng mì cứu đói. Tiền chính phủ giúp được gửi về địa chỉ nơi cư ngụ.
Không ai quát tháo khi đến các văn phòng để nộp đơn.
Tự do của bạn được bảo vệ tối đa, thì bù lại bạn cũng phải tự mình bỏ đi những thói quen tuỳ tiện.
Tiên trách kỷ hậu trách nhân. Nhập gia tùy tục. Người ta đã gán cho chúng ta là những người may mắn. Những người đẻ bọc điều.
Phải chăng nỗi canh cánh của những người phải xa lìa quê cha đất tổ là được trở về nơi chôn nhau cắt rốn.
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa.
Nở hoa trong lòng tất cả người dân Việt trên toàn thế giới. Lúc đó chúng ta lại cùng nhau trở về quê cũ.
Về đây nghe em, về đây nghe em.
Về đây mặc áo the, đi guốc mộc.
Chao ơi chỉ nghĩ thế thôi, mà lòng đã lâng lâng vui sướng. Chẳng còn than thở nước Mỹ lạnh lùng.Thay vào đó là những khuôn mặt lạnh lùng vô cảm của những kẻ cai trị người dân quê tôi. Có tai như điếc, có mắt như mù.
Chỉ vì họ không có thói quen nghe tiếng nói của lương tâm con người.
Họ chỉ mang bộ mặt người thôi, nhưng trái tim thì của loài dã thú.
Nhìn về đường cố lý, cố lý xa xôi.
Quê hương chỉ còn là nơi để nhớ trong tâm tưởng.
Chẳng biết đến bao giờ thanh bình mới thật sự nở hoa trên quê nhà yêu dấu.
 Tác giã L.T.M.
Hội "quăng bút" hải ngoại, LHCT độc quyền phát hành

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire